Từ
lâu tình trạng doanh nghiệp trùng tên đã là vấn đề hóc búa cho các cơ
quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp, và cho cả các doanh nghiệp bị
trùng tên. Nguyên nhân của việc trùng tên doanh nghiệp đáng tiếc lại có
từ quy định của pháp luật doanh nghiệp. VietNamNet xin giới thiệu bài
viết quan trọng của một luật sư về vấn đề đang gây nhiều rắc rối này.
Luật không rõ
Theo Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, Luật Sửa đổi, Bổ sung một số
điều của Luật Sở hữu Trí tuệ 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành
(gọi chung là “Luật SHTT”), tên thương mại là “tên gọi của tổ
chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh
doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và
khu vực kinh doanh”.[1] Một tên sẽ được bảo hộ như tên thương mại nếu tên này “không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”.[2]
Mặc dù Luật SHTT đã đưa ra một loạt các tiêu chí để xác định yếu tố
“trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn” của một dấu hiệu,[3]
Luật SHTT đã không xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Trong Luật
SHTT, “khu vực kinh doanh” được định nghĩa là “khu vực địa lý nơi chủ
thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”,[4]
nhưng định nghĩa này là không rõ ràng. Liệu theo định nghĩa này thì
“khu vực kinh doanh” có thể được hiểu là bất kỳ khu vực địa lý nào mà
doanh nghiệp phân phối sản phẩm đến? Hay “khu vực kinh doanh” là nơi
doanh nghiệp đó đặt trụ sở chính, chi nhánh hay thậm chí chỉ là nơi
doanh nghiệp đặt văn phòng giao dịch? Ví dụ, liệu một doanh nghiệp sản
xuất nước mắm có được bảo hộ tên doanh nghiệp của mình như tên thương mại tại tỉnh Y trong lúc một doanh nghiệp khác cùng ngành đang sử dụng cùng tên đó cho sản phẩm của mình tại tỉnh Z?[5]
Quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh và trên cơ sở sử dụng trước.[6] Luật không yêu cầu phải đăng ký bảo hộ tên thương mại. Chủ sở hữu tên thương mại được quyền sử dụng tên thương mại trong các hoạt động kinh doanh của mình, như thể hiện tên thương mại đó trên các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, bao bì, v.v…[7]
Vì thế, nếu “X” được sử dụng trên các bao bì sản phẩm, hàng hoá, quảng
cáo của một doanh nghiệp, về nguyên tắc “X” sẽ được xem là tên thương mại (nếu tên này thoả mãn các điều khác của Luật SHTT như đã nói) và doanh nghiệp này sẽ được coi là chủ sở hữu của tên thương mại “X”.
Tên Doanh Nghiệp là Tên Thương Mại?
Nhiều người cho rằng tên của doanh nghiệp là, hoặc ít ra được xem là, tên thương mại.[8] Tuy nhiên, không có bất kỳ văn bản luật nào xác nhận điều này.[9]
Theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành (gọi
chung là “Luật DN”), tên của doanh nghiệp bao gồm hai thành tố: (1) loại
hình doanh nghiệp, như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
doanh nghiệp tư nhân, v.v…, và (2) tên riêng của doanh nghiệp.[10]
Nghĩa là, ví dụ như, nếu X là tên riêng của doanh nghiệp, tên của doanh
nghiệp sẽ là “Công ty TNHH X”. Ngoài ra, “doanh nghiệp có thể sử dụng
ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư hay yếu tố phụ trợ khác để cấu
thành tên riêng của doanh nghiệp […]”.[11] Ví dụ, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể chấp nhận tên “Công ty TNHH Nước mắm X” là tên doanh nghiệp.
Quyền đối với tên doanh nghiệp được xác lập khi doanh nghiệp đăng ký tên này [12]
trong quá trình đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh tại
tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.[13]
Doanh nghiệp, sau đó, phải (và có quyền) viết hoặc gắn tên doanh nghiệp
tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp và in
hoặc viết tên doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và
ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.[14] Do đó, nếu căn cứ theo định nghĩa về tên thương mại
(là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để
phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác
trong cùng lĩnh vực và “khu vực kinh doanh”), việc sử dụng tên doanh
nghiệp theo những cách này có thể khiến tên doanh nghiệp trở thành tên thương mại. Tuy nhiên, tên doanh nghiệp không nhất thiết luôn luôn là tên thương mại. Vì hai lý do sau. Thứ nhất, như đã nói ở phần trên của bài viết, khái niệm “khu vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại là không rõ ràng và gần như không giúp xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Thứ hai, phạm vi bảo hộ của tên thương mại khác phạm vi bảo hộ của tên doanh nghiệp. Điểm này sẽ được nói rõ ở phần kế tiếp của bài viết.
Bảo Hộ Tên Thương Mại và Bảo hộ Tên Doanh Nghiệp
Theo Luật DN, tên của một doanh nghiệp có thành phần tên
riêng trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký sẽ không được cơ
quan đăng ký kinh doanh chấp nhận. [15]
Nghĩa là, về mặt nguyên tắc, nếu tên “Công ty TNHH X” đã được đăng ký,
các doanh nghiệp khác sẽ không thể sử dụng tên có thành phần tên riêng
là “X” để tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ này chỉ
giới hạn trong phạm vi tỉnh, thành phố, mà cụ thể là tỉnh, thành phố
nơi doanh nghiệp liên quan tiến hành đăng ký kinh doanh. Do đó, nếu
“Công ty TNHH X” được đăng ký tại tỉnh Y, Luật DN không cấm doanh nghiệp
khác đăng ký tên “Công ty TNHH X” tại tỉnh Z. [16]
Quy định như vậy, Luật DN rõ ràng đã tạo ra nhiều khó khăn, phức tạp
khi áp dụng Luật trong thực tế. Không những làm xuất hiện một số lượng
lớn các doanh nghiệp trùng tên trên toàn quốc, [17] quy định này còn gây khó khăn cho chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT (sẽ được nói rõ ở dưới đây).
Rõ
ràng rằng doanh nghiệp sẽ sử dụng tên doanh nghiệp trên bao bì hàng
hoá, sản phẩm của mình, ví dụ như bao bì sản phẩm sẽ ghi “sản phẩm của
Công ty TNHH X”. Bằng cách này, tên doanh nghiệp có thể được xem là tên thương mại theo
Luật SHTT. Tuy nhiên, theo Luật DN, một doanh nghiệp khác (“doanh
nghiệp thứ hai”) lại hoàn toàn có quyền đóng gói sản phẩm của mình với
cùng một cách tương tự như doanh nghiệp kia (“doanh nghiệp thứ nhất”),
do doanh nghiệp thứ hai này đã đăng ký kinh doanh với cùng tên doanh
nghiệp tại một tỉnh, thành phố khác. Do đó, tên của doanh nghiệp thứ hai
cũng có thể được xem là tên thương mại. Câu hỏi đặt ra ở đây sẽ là, (1) doanh nghiệp nào sẽ được bảo hộ theo Luật SHTT, và (2) cơ chế bảo hộ sẽ như thế nào?
1. Như đã nói ở phần đầu của bài viết, tên thương mại được
bảo hộ trên cơ sở sử dụng trước. Do đó, về mặt nguyên tắc, trong trường
hợp nêu ở trên về hai doanh nghiệp trùng tên, sử dụng tên doanh nghiệp
của mình trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nào sử dụng tên đó
trước sẽ được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp của tên thương mại đó.
Tuy nhiên, vấn đề thực tế không đơn giản chút nào. Như đã nói, thành tố để xác định một tên thương mại
bao gồm “lĩnh vực kinh doanh” và “khu vực kinh doanh”. Trong khi “lĩnh
vực kinh doanh” thì quá rõ ràng, “khu vực kinh doanh” gần như không thể
xác định được.
Lấy
lại ví dụ vừa rồi về hai doanh nghiệp trùng tên – doanh nghiệp thứ nhất
và doanh nghiệp thứ hai. Nếu doanh nghiệp thứ nhất đóng gói bao bì sản
phẩm với tên của doanh nghiệp và phân phối sản phẩm tại tỉnh Y. Sau đó,
doanh nghiệp thứ hai cũng đóng gói sản phẩm của mình với tên doanh
nghiệp mình và phân phối sản phẩm tại tỉnh Z. Hai doanh nghiệp này không
những trùng tên mà, giả sử, còn hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh
doanh. Vậy, liệu hành vi đóng gói sản phẩm dưới tên doanh nghiệp của
doanh nghiệp thứ nhất có được xem là “sử dụng trước” hay không? Nếu câu
trả lời là “Có”, có nghĩa là “khu vực kinh doanh” trong trường hợp này
phải được hiểu là toàn lãnh thổ Việt Nam[18] do doanh nghiệp thứ nhất sử dụng tên doanh nghiệp (như là tên thương mại)
trước nhưng lại chỉ trong giới hạn địa lý của tỉnh Y, và doanh nghiệp
thứ hai sử dụng tên đó sau nhưng cũng chỉ trong giới hạn của tỉnh Z.
Ngược lại nếu câu trả lời là “Không”, có nghĩa là “khu vực kinh doanh”
phải được diễn giải riêng lẻ là tỉnh Y và tỉnh Z, tức là khu vực địa lý
nơi doanh nghiệp phân phối sản phẩm và do đó “có bạn hàng, khách hàng
hoặc có danh tiếng”.[19]
2. Luật
DN quy định “trường hợp tên của doanh nghiệp vi phạm các quy định của
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên”.[20]
Nếu áp dụng quy định này vào ví dụ vừa rồi, một trong hai doanh nghiệp,
nếu bị cho là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, sẽ phải đổi tên doanh
nghiệp của mình mặc dù cả hai doanh nghiệp đều đã hoàn toàn tuân thủ quy
định của Luật DN trong quá trình các doanh nghiệp này tiến hành đăng ký
kinh doanh.
Ngoài
ra, vấn đề đổi tên doanh nghiệp bắt buộc - nói thì dễ như thực tế thực
hiện được hay không là một vấn đề khác. Hãy cứ tưởng tượng làm thế nào
mà 722 doanh nghiệp trùng tên ở Hà Nội [21] tiến hành đổi tên?
Giải pháp
Giải
pháp duy nhất cho tình trạng chồng chéo giữa Luật DN và Luật SH chỉ có
thể là: thứ nhất, Luật SHTT phải được sửa đổi để làm rõ khái niệm “khu
vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại. Hiện tại, thẩm phán,
luật sư, v.v… giải thích khái niệm “khu vực kinh doanh” theo kiểu mỗi
người một ý. Thứ hai, Luật DN cũng phải được sửa đổi mà cụ thể là phần
quy định về tên doanh nghiệp, để các quy định này không gây ra thêm khó
khăn, phức tạp khi áp dụng Luật trong thực tế và không gây ảnh hưởng đến
các chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT như hiện nay.
Ths Ls Lê Thu Phương
[2] Điều 78.2, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[3] Điều 13, Nghị định 105/2006/NĐ-CP
[4] Điều 4.21, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[5]
Đọc thêm “Hưng Thịnh là của ai”, Tạp chí Hoạt động Khoa học, Số tháng
08/2008,
http://www.tchdkh.org.vn/data/tintucvn/200808/13102254/Hung%20Thinh.doc
[6] Điều 1.6, Mục I, Chương I, Thông tư 01/2007/BKHCN
[7] Điều 124.6, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[8]
“Không thể cưỡng chế doanh nghiệp”, Diễn đàn Doanh nghiệp, Số tháng
04/2009,
http://dddn.com.vn/20090409104619894cat103/khong-the-cuong-che-dn.htm
[9]
Lê Tùng, “Tên thương mại và nhãn hiệu- từ cách định nghĩa đến tình
huống pháp lý có thể phát sinh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/so-huu-tri-tue/2007/4902/Ten-thuong-mai-va-nhan-hieu-tu-cach-dinh-nghia-den-tinh.aspx
[10] Điều 10.1, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[11] Điều 10.2, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[12] Điều 16.2, Nghị định 103/2006/NĐ-CP
[13] Điều 11.1, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[14] Điều 31.2, Luật Doanh nghiệp 2005
[15] Điều 12.2.h, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[16]
Đọc thêm: “Doanh nghiệp trùng tên: Loay hoay gỡ rối”, Diễn đàn Doanh
nghiệp, Số tháng 4/2009,
http://dddn.com.vn/20090410024453769cat81/doanh-nghiep-trung-ten-loay-hoay-go-roi.htm
[17]
Tính đến tháng 8/2009, chỉ riêng trong địa bàn Hà Nội đã có hơn 722
doanh nghiệp trùng tên. Đọc thêm: “Tìm lời giải cho doanh nghiệp trùng
tên”, Kinh tế Sài Gòn Online, Số tháng 08/2009,
http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/16095/
[18]
Đọc thêm “Hưng Thịnh là của ai”, Tạp chí Hoạt động Khoa học, Số tháng
08/2008,
http://www.tchdkh.org.vn/data/tintucvn/200808/13102254/Hung%20Thinh.doc
[19] Xem chú thích số 4
[20] Điều 11.4, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[21] Xem chú thích số 17.