Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

Bảo hộ tên doanh nghiệp ảnh hưởng bảo hộ tên thương mại?



Từ lâu tình trạng doanh nghiệp trùng tên đã là vấn đề hóc búa cho các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan tư pháp, và cho cả các doanh nghiệp bị trùng tên. Nguyên nhân của việc trùng tên doanh nghiệp đáng tiếc lại có từ quy định của pháp luật doanh nghiệp. VietNamNet xin giới thiệu bài viết quan trọng của một luật sư về vấn đề đang gây nhiều rắc rối này.
Luật không rõ
Theo Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, Luật Sửa đổi, Bổ sung một số điều của Luật Sở hữu Trí tuệ 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành (gọi chung là “Luật SHTT”), tên thương mại là “tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”.[1] Một tên sẽ được bảo hộ như tên thương mại nếu tên này “không trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại mà người khác đã sử dụng trước trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh”.[2] Mặc dù Luật SHTT đã đưa ra một loạt các tiêu chí để xác định yếu tố “trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn” của một dấu hiệu,[3] Luật SHTT đã không xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Trong Luật SHTT, “khu vực kinh doanh” được định nghĩa là “khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”,[4] nhưng định nghĩa này là không rõ ràng. Liệu theo định nghĩa này thì “khu vực kinh doanh” có thể được hiểu là bất kỳ khu vực địa lý nào mà doanh nghiệp phân phối sản phẩm đến? Hay “khu vực kinh doanh” là nơi doanh nghiệp đó đặt trụ sở chính, chi nhánh hay thậm chí chỉ là nơi doanh nghiệp đặt văn phòng giao dịch? Ví dụ, liệu một doanh nghiệp sản xuất nước mắm có được bảo hộ tên doanh nghiệp của mình như tên thương mại tại tỉnh Y trong lúc một doanh nghiệp khác cùng ngành đang sử dụng cùng tên đó cho sản phẩm của mình tại tỉnh Z?[5]
Quyền đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó trong hoạt động kinh doanh và trên cơ sở sử dụng trước.[6] Luật không yêu cầu phải đăng ký bảo hộ tên thương mại. Chủ sở hữu tên thương mại được quyền sử dụng tên thương mại trong các hoạt động kinh doanh của mình, như thể hiện tên thương mại đó trên các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, bao bì, v.v…[7] Vì thế, nếu “X” được sử dụng trên các bao bì sản phẩm, hàng hoá, quảng cáo của một doanh nghiệp, về nguyên tắc “X” sẽ được xem là tên thương mại (nếu tên này thoả mãn các điều khác của Luật SHTT như đã nói) và doanh nghiệp này sẽ được coi là chủ sở hữu của tên thương mại “X”.

Tên Doanh Nghiệp là Tên Thương Mại?
Nhiều người cho rằng tên của doanh nghiệp là, hoặc ít ra được xem là, tên thương mại.[8] Tuy nhiên, không có bất kỳ văn bản luật nào xác nhận điều này.[9] Theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành (gọi chung là “Luật DN”), tên của doanh nghiệp bao gồm hai thành tố: (1) loại hình doanh nghiệp, như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, v.v…, và (2) tên riêng của doanh nghiệp.[10] Nghĩa là, ví dụ như, nếu X là tên riêng của doanh nghiệp, tên của doanh nghiệp sẽ là “Công ty TNHH X”. Ngoài ra, “doanh nghiệp có thể sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư hay yếu tố phụ trợ khác để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp […]”.[11] Ví dụ, cơ quan đăng ký kinh doanh có thể chấp nhận tên “Công ty TNHH Nước mắm X” là tên doanh nghiệp.
Quyền đối với tên doanh nghiệp được xác lập khi doanh nghiệp đăng ký tên này [12] trong quá trình đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh tại tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.[13] Doanh nghiệp, sau đó, phải (và có quyền) viết hoặc gắn tên doanh nghiệp tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp và in hoặc viết tên doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.[14] Do đó, nếu căn cứ theo định nghĩa về tên thương mại (là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và “khu vực kinh doanh”), việc sử dụng tên doanh nghiệp theo những cách này có thể khiến tên doanh nghiệp trở thành tên thương mại. Tuy nhiên, tên doanh nghiệp không nhất thiết luôn luôn là tên thương mại. Vì hai lý do sau. Thứ nhất, như đã nói ở phần trên của bài viết, khái niệm “khu vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại là không rõ ràng và gần như không giúp xác định được “khu vực kinh doanh” là gì. Thứ hai, phạm vi bảo hộ của tên thương mại khác phạm vi bảo hộ của tên doanh nghiệp. Điểm này sẽ được nói rõ ở phần kế tiếp của bài viết.

Bảo Hộ Tên Thương Mại và Bảo hộ Tên Doanh Nghiệp
Theo Luật DN, tên của một doanh nghiệp có thành phần tên riêng trùng với tên riêng của doanh nghiệp đã đăng ký sẽ không được cơ quan đăng ký kinh doanh chấp nhận. [15] Nghĩa là, về mặt nguyên tắc, nếu tên “Công ty TNHH X” đã được đăng ký, các doanh nghiệp khác sẽ không thể sử dụng tên có thành phần tên riêng là “X” để tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế bảo hộ này chỉ giới hạn trong phạm vi tỉnh, thành phố, mà cụ thể là tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp liên quan tiến hành đăng ký kinh doanh. Do đó, nếu “Công ty TNHH X” được đăng ký tại tỉnh Y, Luật DN không cấm doanh nghiệp khác đăng ký tên “Công ty TNHH X” tại tỉnh Z. [16] Quy định như vậy, Luật DN rõ ràng đã tạo ra nhiều khó khăn, phức tạp khi áp dụng Luật trong thực tế. Không những làm xuất hiện một số lượng lớn các doanh nghiệp trùng tên trên toàn quốc, [17] quy định này còn gây khó khăn cho chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT (sẽ được nói rõ ở dưới đây).
 
Rõ ràng rằng doanh nghiệp sẽ sử dụng tên doanh nghiệp trên bao bì hàng hoá, sản phẩm của mình, ví dụ như bao bì sản phẩm sẽ ghi “sản phẩm của Công ty TNHH X”. Bằng cách này, tên doanh nghiệp có thể được xem là tên thương mại theo Luật SHTT. Tuy nhiên, theo Luật DN, một doanh nghiệp khác (“doanh nghiệp thứ hai”) lại hoàn toàn có quyền đóng gói sản phẩm của mình với cùng một cách tương tự như doanh nghiệp kia (“doanh nghiệp thứ nhất”), do doanh nghiệp thứ hai này đã đăng ký kinh doanh với cùng tên doanh nghiệp tại một tỉnh, thành phố khác. Do đó, tên của doanh nghiệp thứ hai cũng có thể được xem là tên thương mại. Câu hỏi đặt ra ở đây sẽ là, (1) doanh nghiệp nào sẽ được bảo hộ theo Luật SHTT, và (2) cơ chế bảo hộ sẽ như thế nào?
1.  Như đã nói ở phần đầu của bài viết, tên thương mại được bảo hộ trên cơ sở sử dụng trước. Do đó, về mặt nguyên tắc, trong trường hợp nêu ở trên về hai doanh nghiệp trùng tên, sử dụng tên doanh nghiệp của mình trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nào sử dụng tên đó trước sẽ được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp của tên thương mại đó.  
Tuy nhiên, vấn đề thực tế không đơn giản chút nào. Như đã nói, thành tố để xác định một tên thương mại bao gồm “lĩnh vực kinh doanh” và “khu vực kinh doanh”. Trong khi “lĩnh vực kinh doanh” thì quá rõ ràng, “khu vực kinh doanh” gần như không thể xác định được.
Lấy lại ví dụ vừa rồi về hai doanh nghiệp trùng tên – doanh nghiệp thứ nhất và doanh nghiệp thứ hai. Nếu doanh nghiệp thứ nhất đóng gói bao bì sản phẩm với tên của doanh nghiệp và phân phối sản phẩm tại tỉnh Y. Sau đó, doanh nghiệp thứ hai cũng đóng gói sản phẩm của mình với tên doanh nghiệp mình và phân phối sản phẩm tại tỉnh Z. Hai doanh nghiệp này không những trùng tên mà, giả sử, còn hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Vậy, liệu hành vi đóng gói sản phẩm dưới tên doanh nghiệp của doanh nghiệp thứ nhất có được xem là “sử dụng trước” hay không? Nếu câu trả lời là “Có”, có nghĩa là “khu vực kinh doanh” trong trường hợp này phải được hiểu là toàn lãnh thổ Việt Nam[18] do doanh nghiệp thứ nhất sử dụng tên doanh nghiệp (như là tên thương mại) trước nhưng lại chỉ trong giới hạn địa lý của tỉnh Y, và doanh nghiệp thứ hai sử dụng tên đó sau nhưng cũng chỉ trong giới hạn của tỉnh Z. Ngược lại nếu câu trả lời là “Không”, có nghĩa là “khu vực kinh doanh” phải được diễn giải riêng lẻ là tỉnh Y và tỉnh Z, tức là khu vực địa lý nơi doanh nghiệp phân phối sản phẩm và do đó “có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng”.[19]
2.   Luật DN quy định “trường hợp tên của doanh nghiệp vi phạm các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại thì doanh nghiệp có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên”.[20] Nếu áp dụng quy định này vào ví dụ vừa rồi, một trong hai doanh nghiệp, nếu bị cho là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, sẽ phải đổi tên doanh nghiệp của mình mặc dù cả hai doanh nghiệp đều đã hoàn toàn tuân thủ quy định của Luật DN trong quá trình các doanh nghiệp này tiến hành đăng ký kinh doanh. 
Ngoài ra, vấn đề đổi tên doanh nghiệp bắt buộc - nói thì dễ như thực tế thực hiện được hay không là một vấn đề khác. Hãy cứ tưởng tượng làm thế nào mà 722 doanh nghiệp trùng tên ở Hà Nội [21] tiến hành đổi tên?

Giải pháp
Giải pháp duy nhất cho tình trạng chồng chéo giữa Luật DN và Luật SH chỉ có thể là: thứ nhất, Luật SHTT phải được sửa đổi để làm rõ khái niệm “khu vực kinh doanh” trong định nghĩa tên thương mại. Hiện tại, thẩm phán, luật sư, v.v… giải thích khái niệm “khu vực kinh doanh” theo kiểu mỗi người một ý. Thứ hai, Luật DN cũng phải được sửa đổi mà cụ thể là phần quy định về tên doanh nghiệp, để các quy định này không gây ra thêm khó khăn, phức tạp khi áp dụng Luật trong thực tế và không gây ảnh hưởng đến các chế định bảo hộ tên thương mại theo Luật SHTT như hiện nay.  

Ths Ls Lê Thu Phương
[1] Điều 4.21, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[2] Điều 78.2, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[3] Điều 13, Nghị định 105/2006/NĐ-CP
[4] Điều 4.21, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[5] Đọc thêm “Hưng Thịnh là của ai”, Tạp chí Hoạt động Khoa học, Số tháng 08/2008, http://www.tchdkh.org.vn/data/tintucvn/200808/13102254/Hung%20Thinh.doc
[6] Điều 1.6, Mục I, Chương I, Thông tư  01/2007/BKHCN
[7] Điều 124.6, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005
[8] “Không thể cưỡng chế doanh nghiệp”, Diễn đàn Doanh nghiệp, Số tháng 04/2009, http://dddn.com.vn/20090409104619894cat103/khong-the-cuong-che-dn.htm
[9] Lê Tùng, “Tên thương mại và nhãn hiệu- từ cách định nghĩa đến tình huống pháp lý có thể phát sinh”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/so-huu-tri-tue/2007/4902/Ten-thuong-mai-va-nhan-hieu-tu-cach-dinh-nghia-den-tinh.aspx
[10] Điều 10.1, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[11] Điều 10.2, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[12] Điều 16.2, Nghị định 103/2006/NĐ-CP
[13] Điều 11.1, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[14] Điều 31.2, Luật Doanh nghiệp 2005
[15] Điều 12.2.h, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[16] Đọc thêm: “Doanh nghiệp trùng tên: Loay hoay gỡ rối”, Diễn đàn Doanh nghiệp, Số tháng 4/2009, http://dddn.com.vn/20090410024453769cat81/doanh-nghiep-trung-ten-loay-hoay-go-roi.htm
[17] Tính đến tháng 8/2009, chỉ riêng trong địa bàn Hà Nội đã có hơn 722 doanh nghiệp trùng tên. Đọc thêm: “Tìm lời giải cho doanh nghiệp trùng tên”, Kinh tế Sài Gòn Online, Số tháng 08/2009, http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/16095/ 
[18] Đọc thêm “Hưng Thịnh là của ai”, Tạp chí Hoạt động Khoa học, Số tháng 08/2008, http://www.tchdkh.org.vn/data/tintucvn/200808/13102254/Hung%20Thinh.doc
[19] Xem chú thích số 4
[20] Điều 11.4, Nghị định 88/2006/NĐ-CP
[21] Xem chú thích số 17.

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Tìm hiểu về cấu tạo Mã số mã vạch trên bao bì sản phẩm

Để tạo thuận lợi và nâng cao năng suất, hiệu quả trong bán hàng và quản lý kho người ta thường in trên hàng hoá một loại mã hiệu đặc biệt gọi là mã số mã vạch của hàng hoá.
Mã số mã vạch của hàng hoá bao gồm hai phần: mã số của hàng hoá và mã vạc là phần thể hiện mã số bằng vạch để cho máy đọc. Mã số của hàng hoá là một dãy con số dùng để phân định hàng hoá, áp dụng trong quá trình luân chuyển hàng hoá từ người sản xuất, qua bán buôn, lưu kho, phân phối, bán lẻ tới người tiêu dùng. Nếu thẻ căn cước giúp ta phân biệt người này với người khác thì mã số hàng hoá là “thẻ căn cước” của hàng hoá, giúp ta phân biệt được nhanh chóng và chính xác các loại hàng hoá khác nhau.
Mã số của hàng hoá có các tính chất sau:
- Nó là con số duy nhất đặc trưng cho hàng hoá. Mỗi loại hàng hoá được nhận diện bởi một dãy số và mỗi dãy số chỉ tương ứng với một loại hàng hoá.
- Bản thân mã số chỉ là một dãy số đại diện cho hàng hoá, không liên quan đến đặc điểm của hàng hoá. Nó không phải là số phân loại hay chất lượng của hàng hoá, trên mã số cũng không có giá cả của hàng hoá.
Hiện nay, trong thương mại trên toàn thế giới chủ yếu áp dụng hai hệ thống mã số hàng hoá sau:
- Hệ thống UPC (Universal Product Code) là hệ thống thuộc quyền quản lý của Hội đồng mã thống nhất Mỹ UCC (Uniform Code Council, Inc.), được sử dụng từ năm 1970 và hiện vẫn đang sử dụng ở Mỹ và Canada.
- Hệ thống EAN (European Article Number) được thiết lập bởi các sáng lập viên là 12 nước châu Âu với tên gọi ban đầu là Hội EAN (European Article Numbering Association), được sử dụng từ năm 1974 ở châu Âu và sau đó phát triển nhanh chóng, được áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Chính vì lý do này nên từ năm 1977, EAN trở thành một tổ chức quốc tế với tên gọi EAN quốc tế (EAN International)
Trong hệ thống mã số EAN cho sản phẩm bán lẻ có hai loại, một loại sử dụng 13 con số (EAN-13) và loại kia sử dụng 8 con số (EAN-8)
Cấu tạo của mã vạch
Mã số EAN-13 gồm 13 con số có cấu tạo như sau: từ trái sang phải
 + Mã quốc gia: hai hoặc ba con số đầu
 + Mã doanh nghiệp: có thể gồm từ bốn, năm hoặc sáu con số
 + Mã mặt hàng: có thể là năm, bốn, hoặc ba con số tùy thuộc vào mã doanh nghiệp
 + Số cuối cùng là số kiểm tra
Để đảm bảo tính thống nhất và tính đơn nhất của mã số, mã quốc gia phải do tổ chức mã số vật phẩm quốc tế cấp cho các quốc gia là thành viên của tổ chức này. Mã số quốc gia của Việt Nam là 893. Danh mục mã số quốc gia của các nước trong phụ lục kèm theo.
Mã doanh nghiệp do tổ chức mã số vật phẩm quốc gia cấp cho các nhà sản xuất là thành viên của họ. ở Việt Nam, mã doanh nghiệp do EAN-VN cấp cho các doanh nghiệp thành viên của mình.
Mã mặt hàng do nhà sản xuất quy định cho hàng hoá của mình. Nhà sản xuất phải đảm bảo mỗi mặt hàng chỉ có một mã số, không được có bất kỳ sự nhầm lẫn nào.
Số kiểm tra C là một con số được tính dựa vào 12 con số trước đó, dùng để kiểm tra việc ghi đúng những con số nói trên.
Từ năm 1995 đến tháng 3/1998, EAN-VN cấp mã M gồm bốn con số và từ tháng 3/1998, theo yêu cầu của EAN quốc tế, EAN-VN bắt đầu cấp mã M gồm 5 con số.
Mã số EAN-8 gồm 8 con số có cấu tạo như sau:
 + Ba số đầu là mã số quốc gia giống như EAN-13
 + Bốn số sau là mã mặt hàng
 + Số cuối cùng là số kiểm tra
Mã EAN-8 chỉ sử dụng trên những sản phẩm có kích thước nhỏ, không đủ chỗ ghi mã EAN-13 (ví dụ như thỏi son, chiếc bút bi). Các doanh nghiệp muốn sử dụng mã số EAN-8 trên sản phẩm của mình cần làm đơn xin mã tại Tổ chức mã số quốc gia (EAN-VN). Tổ chức mã số quốc gia sẽ cấp trực tiếp và quản lý mã số mặt hàng (gồm 4 con số) cụ thể cho doanh nghiệp.
Mã vạch là một nhóm các vạch và khoảng trống song song đặt xen kẽ dùng để thể hiện mã số dưới dạng máy quét có thể đọc được.
Mã vạch thể hiện mã số EAN gọi là mã vạch EAN. Trong mã vạch EAN, mỗi con số được thể hiện bằng hai vạch và hai khoảng trống theo ba phương án khác nhau (Set A, B, C). Mỗi mã vạch hay khoảng trống có chiều rộng từ 1 đến 4 môđun. Như vậy mã vạch EAN thuộc loại mã đa chiều rộng, mỗi môđun có chiều rộng tiêu chuẩn là 0,33 mm.
Mã vạch EAN là loại mã vạch sử dụng riêng để thể hiện mã số EAN. Mã vạch EAN có những tính chất sau đây:
Chỉ thể hiện các con số (từ O đến 9) với chiều dài cố định (13 hoặc 8 con số)
Là mã đa chiều rộng, tức là mỗi vạch (hay khoảng trống) có thể có chiều rộng từ 1 đến 4 môđun. Do vậy, mật độ mã hoá cao nhưng độ tin cậy tương đối thấp, đòi hỏi có sự chú ý đặc biệt khi in mã.
Mã vạch EAN có cấu tạo như sau: Kể từ bên trái, khu vực để trống không ghi ký hiệu nào cả, ký hiệu bắt đầu, ký hiệu dãy số bên trái, ký hiệu phân cách, ký hiệu dãy số bên phải, số kiểm tra, ký hiệu kết thúc, sau đó là khoảng trống bên phải. Toàn bộ khu vực mã vạch EAN-13 tiêu chuẩn có chiều dài 37,29 mm và chiều cao là 25,93mm.
Mã vạch EAN-8 có cấu tạo tương tự nhưng chỉ có chiều dài tiêu chuẩn là 26,73mm và chiều cao 21,31mm
.......................................................................................................
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí và cung cấp các dịch vụ tốt nhất:
DIEM TUA VANG CO., LTD
Address: 308/9A Cach Mang Thang Tam, Ward 10, District 3, HCM City.
Tel: 08.35 262 008 - .35 262 068    Hotline: 094 6666 749 – 094 6666 748
Email: info@diemtuavang.com – Web: www.diemtuavang.com
Điểm tựa vàng – Điểm tựa thành công!

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Giấy chứng nhận tiêu chuẩn thực phẩm đối với nước khoáng thiên nhiên



Thành phần hồ sơ bao gồm:

  1. Bản công bố tiêu chuẩn sản phẩm.
  2.  Bản tiêu chuẩn cơ sở do thương nhân ban hành (có đóng dấu), bao gồm các nội dung: các chỉ tiêu cảm quan (mầu sắc, trạng thái, mùi vị ), chỉ tiêu chất lượng chủ yếu, tiêu chuẩn chỉ điểm chất lượng, chỉ tiêu vệ sinh về hóa lý, vi sinh vật, kim loại nặng; Thành phần nguyên liệu và phụ gia thực phẩm; Thời hạn sử dụng; Hướng dẫn sử dụng và bảo quản; Chất liệu bao bì và quy cách bao gói; Quy trình sản xuất.
  3. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của thương nhân Việt Nam hoặc Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của công ty sản xuất nước ngoài (bản sao công chứng).
  4. Phiếu kết quả kiểm nghiệm gồm các chỉ tiêu chất lượng chủ yếu, chỉ tiêu chỉ điểm chất lượng và chỉ tiêu vệ sinh của thực phẩm công bố phải do Phòng kiểm nghiệm được công nhận hoặc được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chỉ định.
  5.  Mẫu có gắn nhãn và nhãn hoặc dự thảo nội dung ghi nhãn sản phẩm phù hợp với pháp luật về nhãn (có đóng dấu của thương nhân).
    Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc Giấy chứng nhận đã được cấp (bản sao).
  6.  Bản saoGiấy chứng nhận cơ sở nhãn hiệu hàng hóa (nếu có).
  7. Bản sao biên lai nộp phí thẩm định hồ sơ và lệ phí cấp số chứng nhận cho cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận.
  8. Phiếu kết quả xét nghiệm đối với nước nguồn.

Các bước thực hiện:

  1. Cơ sở gửi hồ sơ về Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP).
  2. Cục An toàn vệ sinh thực phẩm nhận hồ sơ, trả giấy biên nhận cho đương sự.
  3.  Cơ quan tiếp nhận kiểm tra hồ sơ. Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì sau 07 ngày làm việc có công văn yêu cầu cá nhân,doanh nghiệp bổ sung và hoàn thiện hồ sơ theo quy định. Hồ sơ bổ sung có dấu văn thư ghi ngày nhận hồ sơ bổ sung.
  4. Tổ chức thẩm xét sau 10 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lập phiếu thẩm xét theo qui định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
  5. Trả kết quả cho cơ sở và lưu hồ sơ.

Yêu cầu thêm:

Điều 33
1. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm có đăng ký kinh doanh phải công bố việc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu chuẩn ngành theo quy định của pháp luật; trường hợp công bố tiêu chuẩn cơ sở thì tiêu chuẩn đó không được thấp hơn tiêu chuẩn ngành, Tiêu chuẩn Việt Nam. Pháp lệnh số 12/2003/PL-UBTV…
2. Các chỉ tiêu tiêu chuẩn vệ sinh bao gồm yếu tố hoá học, vật lý và vi sinh vật được phép có trong thực phẩm không được vượt quá giới hạn tối đa cho phép. Quyết định 46/2007/QĐ-BYT ng…
3. Các tổ chức cá nhân chỉ được khai thác nước khoáng thiên nhiên sau khi được Bộ Tài nguyên cấp Giấy phép khai thác khoáng sản (nước khoáng) theo quy định của pháp luật về khoáng sản
Các tổ chức, cá nhân sản xuất nước khoáng thiên nhiên đóng chai chỉ được phép xử lý và đóng chai tại nguồn. Quyết định số 02/2005/QĐ-BYT…
4. Điều 35
1. Thực phẩm đóng gói sẵn phải được ghi nhãn thực phẩm. Nhãn thực phẩm phải ghi đầy đủ, chính xác, rõ ràng, trung thực về thành phần thực phẩm và các nội dung khác theo quy định của pháp luật; không được ghi trên nhãn thực phẩm dưới bất kỳ hình thức nào về thực phẩm có công hiệu thay thế thuốc chữa bệnh.
2. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm đóng gói sẵn trên lãnh thổ Việt Nam phải ghi nhãn thực phẩm trước khi xuất xưởng thực phẩm.
3. Nhãn thực phẩm phải có các nội dung cơ bản sau đây:
  • Tên thực phẩm;
  • Tên, địa chỉ cơ sở sản xuất thực phẩm;
  •   Định lượng của thực phẩm;
  • Thành phần cấu tạo của thực phẩm;
  • Chỉ tiêu chất lượng chủ yếu của thực phẩm;
  • Ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản thực phẩm;
  • Hướng dẫn bảo quản, hướng dẫn sử dụng thực phẩm;
  • Xuất xứ của thực phẩm.
.................................................................................................................................................
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí và cung cấp các dịch vụ tốt nhất:
DIEM TUA VANG CO., LTD
Address: 308/9A Cach Mang Thang Tam, Ward 10, District 3, HCM City.
Tel: 08.35 262 008 - .35 262 068    Hotline: 094 6666 749 – 094 6666 748
Email: info@diemtuavang.com – Web: www.diemtuavang.com
Điểm tựa vàng – Điểm tựa thành công!

Hiểu thêm về quyền tác giả



Quyền tác giả hay tác quyền (tiếng Anh: copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh.
Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Một phần người ta cũng nói đó là sở hữu trí tuệ (intellectual property) và vì thế là đặt việc bảo vệ sở hữu vật chất và sở hữu trí tuệ song đôi với nhau, thế nhưng khái niệm này đang được tranh cãi gay gắt. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất.
Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó. Tuy nhiên các quốc gia tuân thủ công ước được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn

Lịch sử phát triển của quyền tác giả

Trong Thời kỳ Cổ đại và Thời kỳ Trung Cổ người ta chưa biết đến quyền cho một tác phẩm trí tuệ. Các quy định luật pháp chỉ có cho những vật mang tác phẩm trí tuệ, đặc biệt là về sở hữu. Thí dụ như là không được phép trộm cắp một quyển sách nhưng lại được phép chép lại từ quyển sách đó. Việc nhiều nghệ sĩ và tác giả cùng làm việc trong một đề tài là một trường hợp bình thường, cũng như việc các nhạc sĩ khác lấy hay thay đổi các bài hát và tác phẩm âm nhạc. Khi không muốn bài viết bị thay đổi tác giả chỉ còn có cách gắn một lời nguyền rủa vào quyển sách của mình như Eike von Repgow, tác giả của Sachsenspiegel, một quyển sách ghi chép lại các luật lệ đương thời, đã nguyền rủa những người giả mạo tác phẩm của ông sẽ bị bệnh hủi.
Cùng với phát minh in (khoảng 1440), các bản sao chép lại của một tác phẩm bắt đầu có thể được sản xuất ở số lượng lớn một cách dễ dàng hơn. Nhưng tác giả vẫn chưa có được “quyền tác giả” ở bên cạnh và còn phải vui mừng là chẳng những tác phẩm được in mà nhà in hay nhà xuất bản còn trả cho một số tiền cho bản viết tay. Thế rồi đi đến trường hợp là bản in đầu tiên bị các nhà in khác in lại. Việc này làm cho việc kinh doanh của nhà in đầu tiên khó khăn đi vì người này đã đầu tư lao động nhiều hơn và có thể cũng đã trả tiền cho tác giả, những người in lại tự nhiên là có thể mời chào sản phẩm của họ rẻ tiền hơn. Tác giả cũng có thể không bằng lòng với các bản in lại vì những bản in lại này thường được sản xuất ít kỹ lưỡng hơn: có lỗi hay thậm chí bài viết còn bị cố ý sửa đổi.
Vì thế, để chống lại tệ in lại, các nhà in đã xin các quyền lợi đặc biệt từ phía chính quyền, cấm in lại một tác phẩm ít nhất là trong một thời gian nhất định. Lợi ích của nhà in trùng với lợi ích của nhà cầm quyền vì những người này muốn có ảnh hưởng đến những tác phẩm được phát hành trong lãnh địa của họ. Đặc biệt là nước Pháp do có chế độ chuyên chế sớm nên đã thực hiện được điều này, ít thành công hơn là ở Đức. Tại Đức một số hầu tước còn cố tình không quan tâm đến việc các nhà xuất bản vi phạm các đặc quyền từ hoàng đế nhằm để giúp đỡ các nhà xuất bản này về kinh tế và để mang vào lãnh thổ văn học đang được ưa chuộng một cách rẻ tiền. Những ý tưởng của Phong trào Khai sáng phần lớn là đã được truyền bá bằng các bản in lậu.
Khi Thời kỳ Phục hưng bắt đầu, cá nhân con người trở nên quan trọng hơn và đặc quyền tác giả cũng được ban phát để thưởng cho những người sáng tạo ra tác phẩm của họ. Tại nước Đức thí dụ như là Albrecht Dürer (1511) đã được công nhận một đặc quyền như vậy. Nhưng việc bảo vệ này chỉ dành cho người sáng tạo như là một cá nhân (quyền cá nhân) và chưa mang lại cho tác giả một thu nhập nào. Giữa thế kỷ 16 các đặc quyền lãnh thổ được đưa ra, cấm in lại trong một vùng nhất định trong một thời gian nhất định.
Khi các nhà xuất bản bắt đầu trả tiền nhuận bút cho tác giả thì họ tin rằng cùng với việc này họ có được một độc quyền kinh doanh (thuyết về sở hữu của nhà xuất bản), ngay cả khi họ không có đặc quyền cho tác phẩm này. Vì thế mà việc in lại bị cấm khi các quyền từ tác giả được mua lại.
Mãi đến thế kỷ 18, lần đầu tiên mới có các lý thuyết về các quyền giống như sở hữu cho các lao động trí óc (và hiện tượng của sở hữu phi vật chất). Trong một bộ luật của nước Anh năm 1710, Statue of Anne, lần đầu tiên một độc quyền sao chép của tác giả được công nhận. Tác giả sau đó nhượng quyền này lại cho nhà xuất bản. Sau một thời gian được thỏa thuận trước tất cả các quyền lại thuộc về tác giả. Tác phẩm phải được ghi vào trong danh mục của nghiệp hội các nhà xuất bản và phải có thêm ghi chú copyright để được bảo vệ. Phương pháp này được đưa vào ứng dụng tại Mỹ vào năm 1795 (yêu cầu phải ghi vào danh mục được bãi bỏ tại Anh vào năm 1956 và tại Hoa Kỳ vào năm 1978). Ý tưởng về sở hữu trí tuệ phần lớn được giải thích bằng thuyết về quyền tự nhiên (tiếng Anh: natural law). Tại Pháp một Propriété littéraire et artistique (Sở hữu văn học và nghệ thuật) được đưa ra trong hai bộ luật vào năm 1791 và 1793. Tại nước Phổ một bảo vệ tương tự cũng được đưa ra vào năm 1837. Cũng vào năm 1837 Hội đồng liên bang của Liên minh Đức quyết định thời hạn bảo vệ từ khi tác phẩm ra đời là 10 năm, thời hạn này được kéo dài thành 30 năm sau khi tác giả qua đời (post mortem auctoris) vào năm 1845. Trong Liên minh Bắc Đức việc bảo vệ quyền tác giả được đưa ra vào năm 1857 và được Đế chế Đức thu nhập và tiếp tục mở rộng sau đó. Trong Đệ tam Đế chế các tác giả chỉ là “người được ủy thác trong nom tác phẩm” cho cộng đồng nhân dân.

 Phát triển hiện tại của quyền tác giả

Những lý lẽ được đưa ra trong các cuộc thảo luận về việc quyền tác giả phải phản ứng như thế nào trước các phát triển kỹ thuật hiện tại đều tương tự như nhau trên toàn thế giới. Một vài quốc gia chỉ còn có một phạm vi tự do hạn hẹp trong việc định hình cho quyền tác giả vì những quy định khác thường có thể được coi là lợi thế không công bằng, không được các đối tác thương mại thế giới chấp nhận mà không có phản ứng chống lại. Trong tương quan về thế mạnh hiện tại Mỹ là quốc gia có phạm vi tự do rộng lớn nhất và với Digital Millennium Copyright Act (DMCA) là quốc gia đã định sẵn chiều hướng chung của quyền tác giả, đi đến việc bảo vệ quyền tác giả một cách nghiêm ngặt hơn. Định luật tương tự ở châu Âu là European Union Copyright Directive (EUCD- Chỉ thị Copyright Liên minh châu Âu).
Tại châu Âu các chỉ thị của Liên minh châu Âu chỉ có tính chất tạo khuôn khổ và phải được bổ sung bằng các luật lệ của từng quốc gia. Bắt đầu từ ngày 13 tháng 9 năm 2003 một quyền tác giả được sửa đổi có hiệu lực tại Đức mà trong đó, ngoài những điều lệ khác, việc vô hiệu hóa các phương pháp bảo vệ chống sao chép cho các mục đích thương mại cũng như cá nhân đều sẽ bị phạt. Điều 95 a của Luật quyền tác giả quy định về việc “bảo vệ các biện pháp kỹ thuật”. Theo điều 95 khoản 1 của Luật quyền tác giả, các biện pháp kỹ thuật không được phép vô hiệu hóa khi chưa có sự đồng ý của người đang sở hữu quyền này. Các biện pháp bảo vệ chống sao chép ở các đĩa compact (CD) ghi âm thanh hay DVD không còn được phép vô hiệu hóa vì mục đích sao chép cho cá nhân nữa. Tại Áo việc thực hiện EUCD đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2003. Trong thời gian gần đây IP-Enforcement Directive của Liên minh châu Âu là bước kế tiếp trong hướng đi đến thắt chặt hơn nữa các luật lệ về quyền tác giả.
Việc hoàn toàn hủy bỏ quyền được phép có bản sao dùng cho mục đích cá nhân đang được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) yêu cầu và sau đó là việc truy tìm cứng rắn hơn các vi phạm về quyền tác giả. Ngoài những nguyên nhân khác đây cũng là một phản ứng chống lại việc sử dụng ngày càng phổ biến các nơi trao đổi trong internet và các công nghệ khác của “thời đại số”. Ngày nay chương trình phát thanh hay truyền hình có thể nghe hay xem được qua Internet, sách điện tử (e-book) được coi như là một cạnh tranh của sách in. Những thay đổi này là lý lẽ của những người kinh doanh trong giới truyền thông nhằm để thông qua luật lệ mà trở về lại thời kỳ trước khi các máy quay video, máy thâu băng và máy thu thanh được phổ biến rộng rãi: Vào năm 1900, khi muốn nghe nhạc (không phải là live) thì tất cả mọi người đều phải mua một đĩa hát.
Mỗi một phát minh mới, thí dụ như máy thu thanh, đều được coi như là sẽ làm suy tàn công nghiệp âm nhạc, nhưng thật ra điều trái ngược lại đã xảy ra.

Bản quyền

Copyright (bản quyền) là thuật ngữ được các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-Mỹ (Án lệ) dùng chỉ cho quyền phi vật thể đối với các tác phẩm trí tuệ. Quyền này tương tự như quyền tác giả (Author’s Right) ở Việt Nam nói riêng và các quốc gia theo hệ thống luật Continental như Đức hoặc một số quốc gia Châu Âu khác nhưng khác nhau ở nhiều điểm cơ bản.
Chủ thể được bảo hộ là tương đối khác nhau. Trong khi quyền tác giả đặt tác giả như là người sáng tạo và các quan hệ tinh thần của tác giả đối với tác phẩm làm trung tâm thì Copyright lại bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả (owner of the Copyright) hơn là chính tác giả. Copyright trước nhất là dùng để bảo vệ các đầu tư về kinh tế. Chính từ nền tảng này mà luật của các vùng nói tiếng Anh và luật của châu Âu lục địa đã đi đến kết quả khác nhau cho nhiều vấn đề về luật pháp.
Trong Copyright của hệ thống luật Anh-Mỹ, trái ngược với luật về quyền tác giả của hệ thống luật Châu Âu lục địa, các quyền sử dụng và quyền định đoạt về một tác phẩm thường không dành cho tác giả (thí dụ cho một nghệ sĩ) mà lại dành cho những người khai thác các quyền này về mặt kinh tế (thí dụ như nhà xuất bản). Tác giả chỉ giữ lại các quyền phủ quyết có giới hạn nhằm để ngăn cản việc lạm dụng của Copyright từ phía những người khác thác các quyền này.
Một điểm khác biệt cơ bản nữa giữa Bản quyền và quyền tác giả là luật bản quyền bảo vệ cả những quyền nhân thân của tác giả (moral right) trong khi các quốc gia như Anh, Úc, Mỹ hầu như không hề có những quy định này cho đến thời gian gần đây. Cụ thể như pháp luật về quyền tác giả Việt Nam từ lâu đã bảo vệ những quyền nhân thân của tác giả như Quyền bảo đảm được trích dẫn khi tác được sử dụng hoặc quyền bảo dẳm tác phẩm không bị sữa đỗi, bổ sung, thay đỗi, chuyển thể dưới mọi hình thức mà không được sự đồng ý của (các) tác giả.
Cho đến những năn gần đây Copyright tại Mỹ vẫn phải đăng ký một cách rõ ràng và chấm dứt 75 năm sau khi được ghi vào trong danh mục Copyright trung tâm. Hiện nay các tác phẩm mới tại Mỹ được bảo vệ cho đến 70 năm sau khi tác giả qua đời hay 95 năm dành cho các doanh nghiệp. Việc đăng ký Copyright tại “Library of Congress” không còn là cần thiết bắt buộc nữa nhưng vẫn được khuyên nhủ.
Ghi chú Copyright – ký hiệu © hay (c) – sau đó thường là người sở hữu quyền và năm) hay cũng được gọi là thông báo quyền tác giả có nguồn gốc từ luật Mỹ. Lý do là theo các luật lệ cũ của Mỹ thì có thể mất các quyền về một tác phẩm nếu như không có ghi chú Copyright. Sau khi Mỹ gia nhập Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật vào năm 1989 thì ghi chú Copyright không cần thiết nữa nhưng vẫn có thể được đính kèm tùy theo ý muốn. Trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì ngược lại, quyền tác giả phát sinh tại thời điểm tác giả tạo ra tác phẩm.

Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu

Liên minh châu Âu đã đưa ra nhiều chỉ thị để thống nhất quyền tác giả trong toàn Liên minh châu Âu. Theo Chỉ thị phần mềm (91/259/EWG) ra đời vào năm 1991 thì các chương trình máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả. Trong năm 1993, thông qua Chỉ thị về hòa hợp thời gian bảo vệ quyền tác giả và một số quyền bảo vệ có liên quan (còn gọi là Chỉ thị về thời gian bảo vệ), thời gian bảo vệ của các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ấn định thống nhất là cho đến 70 năm sau khi tác giả qua đời. Các quyền lợi của những nhà nghệ thuật biểu diễn chấm dứt 50 năm sau khi biểu diễn.
Với Chỉ thị quyền tác giả của Liên minh châu Âu (Chỉ thị 2001/29/EG) các quy định luật pháp châu Âu về quyền tác giả được nâng lên cùng với thời đại số và các định ước quốc tế được thực hiện thông qua các hiệp định của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).

Quyền tác giả tại Việt Nam

Quyền tác giả tại Việt Nam đã được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị Định 100/NĐ-CP/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền sau đây: 1. Quyền Nhân thân – Đặt tên cho tác phẩm – Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; – Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; – Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. 2. Quyền tài sản – Làm tác phẩm phái sinh; – Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; – Sao chép tác phẩm; – Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; – Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; – Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Tác phẩm được bảo hộ theo cơ chế quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật.

Phong trào chống đối

Bên cạnh những người tiêu dùng vì đã quen thuộc với các vi phạm về quyền tác giả trong các nơi trao đổi âm nhạc trong Internet nên đang tự nhận thấy bị hạn chế các quyền tự do bởi luật pháp ngày càng nghiêm ngặt hơn cũng có những tác giả mong muốn đưa các tác phẩm của họ cho cộng đồng sử dụng tự do.
Để thực hiện điều này đơn giản nhất là từ bỏ quyền tác giả. Nhưng điều này không phải là trong bất cứ một hệ thống luật pháp nào cũng có thể được và vẫn tiếp tục dẫn đến tình trạng là các phiên bản được cải biến không phải là tự động được tự do sử dụng vì tác giả của những sửa đổi này không bắt buộc phải từ bỏ quyền tác giả của họ. Một khả năng để tránh tình trạng này là không từ bỏ quyền tác giả mà thông qua một hợp đồng bản quyền công nhận các quyền sử dụng đơn giản cho tất cả mọi người. Trong đó, các cái gọi là bản quyền copyleft yêu cầu các phiên bản được biến đổi chỉ được phép phổ biến theo cùng các điều kiện tự do.
......................................................................................................................................................
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí và cung cấp các dịch vụ tốt nhất:
DIEM TUA VANG CO., LTD
Address: 308/9A Cach Mang Thang Tam, Ward 10, District 3, HCM City.
Tel: 08.35 262 008 - .35 262 068    Hotline: 094 6666 749 – 094 6666 748
Email: info@diemtuavang.com – Web: www.diemtuavang.com
Điểm tựa vàng – Điểm tựa thành công!

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Các hình thức xử lý xâm phạm



Chế tài, các biện pháp thực thi và giải quyết tranh chấp Quyền sở hữu công nghiệp tại Việt nam.
Chủ sở hữu các đối tượng Sở hữu công nghiệp khi phát hiện hành vi xâm phạm có thể tự mình hoặc uỷ quyền đại diện cho chúng tôi gửi đơn tố cáo hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tới các cơ quan chức năng theo thủ tục và các chế tài sau đây:

I. Các biện pháp hành chính. 
1. Các cơ quan chức năng. 
Các cơ quan chức năng được trao quyền thực hiện các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu công nghiệp (thực thi) bao gồm:   
- Thanh tra chuyên nghành về Sở hữu công nghiệp thuộc Bộ khoa học công nghệ và các Sở khoa học công nghệ và môi trường các Tỉnh, Thành phố. 
- Cục Quản lý thị trường thuộc Bộ Thương Mại, các Chi Cục và Ðội quản lý thị trường trực thuộc,    
- Cảnh sát kinh tế Trung ương và địa phương,
- Tổng Cục Hải quan và Hải quan các cửa khẩu trên toàn Quốc.     
- Cục Sở hữu công nghiệp thuộc Bộ khoa học và công nghệ không trực tiếp thực hiện các biện pháp thực thi Quyền Sở hữu công nghiệp, song đây là cơ quan chuyên môn trực tiếp, trong nhiều trường hợp, theo yêu cầu của các cơ quan chức năng hoặc các bên liên quan, Cục Sở hữu công nghiệp sẽ tiến hành xem xét và đưa ra ý kiến thẩm định chính  thức bằng văn bản có hay không hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Trên thực tiễn các hoạt động thực thi quyền SHCN tại Việt nam, ý kiến thẩm định  của Cục Sở hữu công nghiệp là tiền đề cơ bản để các cơ quan chức năng thực hiện hoặc không thực hiện các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

2. Ðơn tố cáo hành vi xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp.
Ðơn tố cáo hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tới các cơ quan chức năng cần kèm theo những tài liệu sau:   
      - Tài liệu chứng minh quyền Sở hữu công nghiệp như bản sao văn bằng bảo hộ, trích lục đăng bạ SHCN,
      - ảnh chụp mẫu nhãn hiệu và hàng hoá mang nhãn hiệu, kiểu dáng, sản phẩm, bộ sản phẩm xâm phạm sáng chế,
      - Tên, địa chỉ của cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi xâm phạm,
      - Ý kiến thẩm định bằng văn bản của Cục Sở hữu công nghiệp về hành vi xâm phạm,
      - Giấy uỷ quyền đại diện (nếu thông qua tổ chức đại diện SHCN). 

3. Các chế tài hành chính.
Các cơ quan chức năng thực thi quyền Sở hữu công nghiệp được trao quyền để áp dụng các chế tài hành chính sau:   
- Thanh tra, kiểm tra cơ sở, cửa hàng, kho tàng của các cá nhân, tổ chức bị tố cáo/phát hiện có hành vi xâm  phạm Quyền sở hữu công nghiệp,
- Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp,
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng trong trường hợp tái phạm và từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng trong trường hợp vi phạm có tổ chức, quy mô lớn nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh từ 1 đến 6 tháng hoặc không thời hạn,
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, buộc loại bỏ các yếu tố vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại.    

II. Thủ tục và các chế tài dân sự:
1.  Thủ tục xét xử dân sự:
Hiện chưa có các toà án chuyên trách việc xét xử các vụ án về tranh chấp và xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp tại Việt nam. Trên thực tiễn hiện nay các vụ kiện về Sở hữu công nghiệp thường do các toà án Tỉnh, Thành trực thuộc Trung Ương thụ lý và xét xử theo thủ tục chung. Ðặc biệt trong các trường hợp có yếu tố nước ngoài thì Toà án có thẩm quyền sẽ là Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Toà án Nhân dân thành phố Hà nội theo nguyện vọng của nguyên đơn. 
Phán quyết của toà án sở thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị và xem xét lại bởi toà án phúc thẩm theo trình tự và thủ tục tố tụng dân sự.    
Trên thực tế thường mất từ 06 tháng đến 01 năm để toà án thụ lý và giải quyết một vụ tranh chấp về Sở công nghiệp tại một cấp xét xử.        
        
2.  Các chế tài dân sự. 
Khi thụ lý hồ sơ, dựa vào yêu cầu của nguyên đơn và những đánh giá ban đầu, Toà án có thể thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời như yêu cầu chấm dứt hoạt động sản xuất , kê biên, niêm phong, ngừng thông quan v. v.  
Nguyên đơn có thể yêu cầu Bên có hành vi xâm phạm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra, cải chính, xin lỗi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng v. v..     

III. Thủ tục và các chế tài hình sự. 
 1. Ðối với các hành vi xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp nghiêm trọng, ảnh hưởng đến  trật tự và lợi ích công chúng, chủ sở hữu đối tượng Sở hữu công nghiệp đã được bảo hộ hoặc bất kỳ tổ chức, cá nhân nào cũng có thể tố cáo hành vi xâm phạm đến cơ quan bảo vệ pháp luật,
Toà án có thẩm quyền là các toà án Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương nơi xảy ra hành vi xâm phạm. Trong trường hợp có yếu tố nước ngoài, toà án Thành phố Hà nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có thẩm quyền xét xử. 
Phán quyết của toà án sở thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị và xem xét lại bởi toà án phúc thẩm theo trình tự và thủ tục tố tụng hình sự.    

2.  Các chế tài hình sự.
Các tổ chức, cá nhân vì mục đích kinh doanh có hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp các đối tượng Sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm. 
Phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 
Các hình thức phạt bổ sung: Phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.    

 IV. Kinh nghiệm hoạt động và dịch vụ trợ giúp thường xuyên.
Một kinh nghiệm trong xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chúng tôi muốn gửi tới các doanh nghiệp là khi phát hiện ra hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp của mình, doanh nghiệp nên thực hiện ngay lập tức các biện pháp ngăn chặn, xử lý tránh để tình trạng xâm phạm diễn ra tràn lan sẽ rất khó khăn và tốn kém trong việc xử lý về sau. 
Qua các hoạt động tư vấn và đại diện của chúng tôi cho các doanh nghiệp Viêt nam và nước ngoài trong việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp cho thấy các biện pháp hành chính là tỏ ra có hiệu quả hơn cả vì các chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra không cao, thời gian nhanh chóng từ 3 tuần đến 01 tháng để kết thúc sự việc.     
Ðể thực hiện các biện pháp xử lý nhanh chóng, có hiệu quả, theo kinh nghiệm của chúng tôi các doanh nghiệp nên xem xét các biện pháp sau: 
1.   Xác lập cơ sở pháp lý vững chắc cho Quyền SHCN. 
Hiện tượng xâm phạm nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp tại Việt nam đang diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi và thể hiện ở nhiều biến thể khác nhau bên cạnh đó hệ thống pháp luật về Sở hữu công nghiệp đang trong giai đoạn sửa đổi, hoàn thiện do vậy để có cơ sở pháp lý vững chắc ngăn chặn hiệu quả các hành vi xâm phạm nhãn hiệu hàng hoá, ngoài nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký, các doanh nghiệp cần xem xét đăng ký mở rộng:
1.      nhãn hiệu hàng hoá,
2.      Phạm vi hàng hoá/dịch vụ mang nhãn hiệu,  
2.    Các biện pháp thường xuyên và lâu dài.
Ðể nắm bắt và có biện pháp ngăn chặn sớm ngay từ đầu các hành vi xâm phạm, doanh nghiệp cần thực hiện việc tra cứu thường xuyên theo chu kỳ các dữ liệu từ Cục Sở hữu công nghiệp nhằm xác định diễn biến và tình trạng pháp lý các NHHH và KCND của các doanh nghiệp cùng lĩnh vực. Trên cơ sở kết quả tra cứu, chúng tôi sẽ tiến hành đánh giá, tư vấn và đại diện trong các biện pháp ngăn chặn thích hợp.
Bên cạnh đó, đội ngũ các điều tra viên của chúng tôi luôn thực hiện các hoạt động kiểm tra, rà soát trên thị trường, các nguồn thông tin từ báo chí, phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu quảng cáo. . .  nhằm phát hiện sớm và thông tới các doanh nghiệp các hành vi xâm phạm quyền  sở hữu công nghiệp.

Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

Công nghệ Mã số mã vạch

Công nghệ Mã số mã vạch còn là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu trong kinh doanh

Ngoài nhiều nổi bật trong việc quản ly.MSMV còn là vũ khí hữu hiệu trong kinh doanh.
+ Do có những tính rất ưu việt nên Mã số mã vạch EAN được chấp nhận ở mọi điểm trong “chuỗi cung ứng” quốc tế và trong mỗi quốc gia thành viên.
+ Trong dịch vụ trao đổi thông tin điện tử, Mã số mã vạch là ngôn ngữ quốc tế để soạn thảo các gói tin (messages) về đơn hàng, vận chuyển, thanh toán, nghiên cứu thị trường, đối tác, khiếu nại... Đây là điều kiện không thể thiếu đư­ợc và là một thách thức với các bên tham gia vào thư­ơng mại điện tử toàn cầu.
+ Do đáp ứng đư­ợc yêu cầu khách hàng, Mã số mã vạch có thể tạo điều kiện mở rộng thị phần, tham gia vào thị trư­ờng quốc tế và đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, Mã số mã vạch cũng là công cụ hữu ích trong việc quản lý hoạt động nội bộ của Doanh nghiệp như: theo dõi và điều hành quá trình xuất nhập nguyên vật liệu; quản lý kho; quản lý nhân sự, quản lý vốn kinh doanh...
...............................................................................................................................
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn miễn phí và cung cấp các dịch vụ tốt nhất:
DIEM TUA VANG CO., LTD
Address: 308/9A Cach Mang Thang Tam, Ward 10, District 3, HCM City.
Tel: 08.35 262 008 - .35 262 068    Hotline: 094 6666 749 – 094 6666 748
Email: info@diemtuavang.com – Web: www.diemtuavang.com
Điểm tựa vàng – Điểm tựa thành công!

ĐIỂM TỰA VÀNG

ĐIỂM TỰA VÀNG là một công ty họat động chuyên nghiệp trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ, có chức năng Tư vấn & Ðại diện cho doanh nghiệp trong việc: Xác lập & bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ tại Việt Nam và Nước ngoài; Tư vấn xây dựng & phát triển thương hiệu; cũng như các vấn đề liên quan đến tranh tụng và thực thi quyền Sở hữu trí tuệ.

Tuy thời gian hoạt động chưa lâu, nhưng ĐIỂM TỰA VÀNG đã thành công trong việc cạnh tranh với các đối thủ của  mình bởi cam kết cung cấp những dịch vụ hoàn hảo và chính xác nhất cho khách hàng bằng sự làm việc đoàn kết của đội ngũ luật sư có tinh thần kỷ luật cao với kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn sâu rộng trong lĩnh vực sáng chế và kỹ thuật, rất nhiều trong số đó là những luật sư đã được cấp  thẻ đại diện Sở hữu trí tuệ. Những ưu thế này giúp cho khách hàng nhận được một dịch vụ hoàn hảo  bao gồm tất cả các lĩnh vực liên quan đến vấn đề bảo hộ và  thực thi quyền SHTT.
ĐIỂM TỰA VÀNG cung  cấp cho khách hàng những thông tin nhanh chóng và chính xác và/hoặc tư vấn cho khách hàng ngay khi nhận được yêu cầu. Ðiều này cho thấy phương pháp làm việc kinh tế, tiết kiệm thời gian và đáng tin cậy của công ty chúng tôi.
ĐIỂM TỰA VÀNG muốn thay đổi quan điểm cho rằng mức phí cao chứng tỏ chất lượng  dịch vụ cao bằng bảng giá dịch vụ cạnh tranh hấp dẫn của mình.